NGHỆ THUẬT

Bước đầu của hội họa Việt Nam hiện đại

Tác giả: Tô Ngọc VânTrường

Mĩ thuật, năm đầu tiên sáng lập, ở khu vườn Dufeur, cũng trong phạm vi của trường Mĩ thuật bây giờ. Đó là một xưởng lớn, lợp kẽm trước kia chứa xẻng cuốc, của sở Lục lộ, năm 1925, vừa là tư thất của ông đốc Tardieu, vừa là chỗ họp của những người mới được tuyển. Giữa cái ổ đầu tiên của Mĩ thuật Việt Nam hiện đại ấy có bức tranh vĩ đại của ông Tardieu, hiện giờ dán ở giảng đường trường Cao đẳng, hồi ấy chưa mờ đi vì rêu mốc như ngày nay, lúc nào cũng rực lên cái ánh sáng vàng đỏ của màu cam chín. Trước mặt, một cái thang dài đứng lêu nghêu, tới tận đỉnh tranh, và kêu răng rắc mỗi khi ông Tardieu nặng nề bước lên đề vẽ vào bức họa. Cái thang ấy, ngày ngày ở cao nhìn xuống chúng tôi tụm nhau dưới chân nó, như vừa thiện cảm, vừa tinh nghịch thóc mách. Suốt buổi nó ngắm cái đầu rối bù rất mĩ thuật và muốn có chật tự của Lê Phổ, lúc nào cũng trịnh trọng trên vòng cổ cồn cứng gẫy góc, chung quanh thắt cà vạt đen dài. Nó ranh mãnh chứng kiến cái chuyện chẳng may của chàng Nguyễn Phan Chánh, cứ một ngày lại y như thế xảy ra hai lần, sáng và chiều. Số là chàng có cái ô bạc màu mỗi buổi đi theo chàng mà chàng nhất định giữ bên mình không rời trong khi ngồi vẽ. Ông Tardieu hôm đầu thấy thế không sợ mích lòng chàng, đem cái ô cài vào mình thang, nhưng… buổi sau, sau nữa, và buổi nào cũng thế, công việc giữ ô cạnh mình là của chàng Phan Chánh, công việc cái cài ô vào thang là của ông Đốc Tardieu. Còn công việc cái thang lêu nghêu của chúng tôi là mỗi lần ô đặt lên mình nó lại kêu “cắc !”, nện xuống như chế nhạo, đếm thêm một lần.

Ngồi góc kia là Mai Trung Thứ, môi ưỡn ra, hai mắt lồi bật như muốn chạy lên mình người khỏa thân đứng kiểu mà chàng đang kiên tâm chép họa hình thể. Ngồi góc này là Lê Văn Đệ cũng mải miết, cũng kiên tâm, và thỉnh thoảng thích chi cái gì không ai rõ, cười phi ra một hơi, như chiếc pháo xì bất ngờ lên tiếng…

Nếu trường Mĩ thuật không có! bao nhiêu lòng nhiệt thành ham yêu mĩ-thuật đã đem phung phí trong một nghệ thuật bất chính rồi còn gì ! Ông trời ở nghệ thuật ấy là ông Trần Phềnh, họa sĩ mà trước kia chúng tôi rất phục tài và coi như cái đích tuyệt cao khó tới. Nghệ thuật của ông cốt ở sự khéo tay, quen tay; cái tài là bịa những màu xanh đỏ bôi lên hình thể đã chép theo đúng những bức ảnh, không cần đến sự rung cảm của nghệ sĩ.

Kì thi thứ nhất vào trường Mĩ thuật, Ông Phềnh đến dự. Chúng tôi thèm thuồng nhin ông, nghĩ rằng địa vị ông không phải để làm học trò trường Mĩ thuật, mà đề vào giậy đấy. Trong phòng thi bài vẽ “người khỏa thân” người ta trố mắt theo nhịp tay ông lượn trên trang vẽ, đưa lên lần lượt lấy một đống gài ở kẽ tai, những bút chì to nhỏ bé tí, những cuộn giấy đánh bóng đủ tầm, đủ khô, khéo léo như người thợ cạo lấy ráy lại cho khách hàng, ông sẽ vờn tỉa những lông mi hay những nét răn trên môi bức tranh ông truyền thần “người mẫu”.

Kết quả kì thi làm mọi người kinh ngạc: Ông Phềnh bị đánh hỏng và hết thiêng, với cả nghệ thuật của ông. Vui vẻ, mê yêu, tin tưởng, chúng tôi vào cửa trường Mĩ thuật để tới thâm cung của “ĐẸP”, mà chả bao lâu đã thoáng thấy quyến rũ làm sao! Có trai gái nào say đắm sắc đẹp người bằng chúng tôi mê cái “ĐẸP” ?

Trong thế giới những tâm hồn đam mê ấy, người ta nói đến danh họa Tầu, Nhật hay Âu tây thế kỉ này và thế kỉ trước, người ta tách bạch tính nết, biệt tài của họ, y như những người đã quen biết nhau lắm, đã hiểu nhau quá rồi, tuy người ta mới đọc về họ hay nhìn những bức ảnh chụp có màu hay không về tác phẩm của họ. Những ai đã hiểu rồi mới yêu. Ở tác phẩm ấy, có một vẻ gì gây ra thiện cảm, một không khí gì trong đó những học sinh trường Mĩ thuật của chúng ta thấy dễ chịu thảnh thơi.

Đừng hỏi họ vì sao. Họ sẽ chỉ có thể bắt chước Montaigne mà trả lời: “ vì là Hokusai, Manet, Cézanne, Vangoh… vì là chúng tôi…” Sự đụng chạm của trường Mỹ thuật với công chúng bắt đầu ở cuộc triển lãm thứ nhất vào khoảng 1928-1929, tại ngay trường Mĩ thuật. Có tranh « thiếu nữ rũ tóc 2 mặt buồn của Lê Phổ, tranh “thiếu phụ ngồi trên sập”hai mắt trơn ướt như sắp khóc của Mai Trung Thứ. Có tranh “ông già” nhẹ nhàng của cô Lê Thị Lựu, những tranh nặng nề nâu tối cảnh nhà quê của Nguyễn Phan Chánh. Tranh lụa chưa ra đời. Đó chỉ là tranh sơn mặt sàn sạn và gồ ghề. Đâu nhẵn và bóng lên như ảnh mà công chúng thích. Các báo binh phẩm dè dặt. Người ta chê màu thuốc của Lê Phổ và Phan Chánh như “đất bùn”. Họ có ngờ rằng đó lại là một nhời khen không ? Một tờ báo hằng ngày mỉa tranh của Mai Trung Thứ “dâm” quá. Chỉ tại tác giả vẽ một thiếu phụ mặc quần lĩnh bóng với áo cánh, không có áo dài phủ ngoài.

Trong làng Hội họa, khuynh hưởng chung lúc ấy là sự nắn nót hình thiếu nữ cho có vẻ mơ màng, ngây thơ, đa sầu. Dấu vết thời đại chăng? Ai vẽ mắt ướt sắp khóc tài bằng Mai Trung Thứ? Tất cả thiếu nữ của Lê Phổ, mắt đều mờ, không ánh linh động.

Người ta muốn tác phẩm của mình có vẻ Tầu, Nhật; người ta đóng lên tranh những dấu son chi chít viết lên những hàng chữ Hán dài dòng, vẽ ra những hòn đá cái cây, giảng điệu mà chỉ thấy ở tranh Tầu. « Tầu thực ! » là một tiếng khen bức tranh mà họa sĩ tác giả mở lòng nhận lấy .Cảnh buồn cười đó đã bầy ra nột tâm trạng kiểu cách, trọng những lề lối hơn là sự cảm xúc chân thật, dường như tác phầm hội họa chỉ có dáng dấp bề ngoài mà không ẩn nấp một tâm hồn ở trong!

1931… Đấu xảo thuộc địa bên Pháp đã đưa công chúng Pháp lần đầu ở “gặp” tác phẩm hội họa Việt Nam! Tôi muốn nói những bức tranh vẽ lên lụa không Tây, không Tầu, không Nhật của anh chàng Phan Chánh khư khư giữ ô ngày trước, cái anh chàng đã gây ra phong trào tranh lụa đặc biệt An Nam mà chính anh và tất cả ai không ngờ.

(Nguồn: Giai phẩm số xuân, Đời nay xuất bản năm 1943, tr,85-87)

Đã in lại trong PHONG VỊ XUÂN XƯA- sách Tết 2020. NXB Hội nhà văn. Nhóm t/g Nguyễn Văn Học, Lê Thái Dũng, Nguyễn Thúy Hà sưu tầm, tuyển chọn.

Một bình luận

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *